Tôi làm lâm sàng Trung Y mấy chục
năm, phát hiện thấy khá nhiều bệnh nhân trúng phong (tai biến mạch máu não-chú
thích của người dịch, BS Lâm Hữu Hòa) lạm dụng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (ACNHH).
Kết quả là chỉ có bệnh nhân trúng phong DƯƠNG BẾ chứng mới có công hiệu, còn
bệnh nhân trúng phong ÂM BẾ chứng, trúng phong THOÁT chứng, trúng phong KINH
LẠC và DI CHỨNG hậu trúng phong thì hầu như hay không có công hiệu, thậm chí
còn làm bệnh tình nghiêm trọng hơn hoặc nguy hiểm tới sinh mạng.
NGƯU HOÀNG trong ACNHH có tác dụng
thanh tâm giải độc, thanh nhiệt trừ phong, thông đàm khai khiếu; SỪNG TÊ có tác
dụng định kinh (an thần), lương huyết giải độc (ngày nay vì luật cấm dùng sừng
tê nên dược liệu này được thay bằng sừng trâu nước- chú thích của người dịch,
BS Lâm Hữu Hòa); XẠ HƯƠNG có khả năng khai khiếu tỉnh thần, thông bế cường tâm;
BĂNG PHIẾN tạo hương thơm khai khiếu, thanh nhiệt chỉ thống; UẤT KIM tạo hương
thơm trừ uế; HOÀNG LIÊN, HOÀNG CẦM, CHI TỬ có khả năng thanh nhiệt trừ phiền,
tiêu hỏa giải độc; HÙNG HOÀNG có khả năng thông đàm giải độc; CHÂU SA, TRÂN
CHÂU, VÀNG LÁ có khả năng an thần chấn kinh. Các dược liệu kể trên được phối
hợp trong ACNHH có công hiệu đặc thù độc nhất đối với trúng phong DƯƠNG BẾ
chứng.
Nhưng trúng phong Trung Y phân thành
hai loại: Trúng phong KINH LẠC và trúng phong TẠNG PHỦ. Nói chung, bệnh nhân
trúng phong kinh lạc không thay đổi thần chí (tỉnh táo), tức bệnh nhẹ; bệnh
nhân trúng phong tạng phủ có thần chí không tinh (nói sảng), tức bệnh nặng.
Trúng phong tạng phủ lại chia thành hai loại: Trúng phong BẾ CHỨNG và trúng
phong THOÁT CHỨNG. Trúng phong BẾ CHỨNG lại chia ra: Trúng phong DƯƠNG BẾ CHỨNG
và trúng phong ÂM BẾ CHỨNG. Những bệnh nhân trúng phong tạng phủ đều có triệu
chứng đột nhiên hôn mê, bất tỉnh nhân sự, miệng ngậm hàm cắn chặt, hai tay nắm
chặt cứng, bí đại tiểu tiện, chi thân co giật. Nhưng dương bế chứng còn có sắc
mặt đỏ, thân thể nóng, hơi thở thô, tứ chi động bất an, tâm phiền miệng hôi,
chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng trơn, mạch huyền hoạt và nhanh v.v. Còn âm bế chứng
có thêm sắc mặt trắng môi tím, nằm yên bất động, tứ chi không ấm, đàm dãi tăng
tiết, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm hoạt và chậm. Còn bệnh nhân trúng phong
thoát chứng thì đột nhiên hôn mê, bất tỉnh nhân sự, mắt nhắm miệng mở, thở yếu
nhưng ồn (phát thành tiếng khi thở qua mũi), tay buông chi lạnh, mồ hôi ra
không ngừng, đại tiểu tiện không tự chủ, chi liệt mềm, lưỡi liệt, mạch nhỏ yếu
hoặc không bắt được. Đến mức chi lạnh mồ hôi ra rất nhiều, đờm dãi ra nhiều,
mạch phù đại vô căn hoặc mạch nhỏ yếu không bắt được là thoát chứng nguy hiểm.
An Cung Ngưu Hoàng Hoàn là thuốc cấp cứu của Trung Y.
Đối với trúng phong, ACNHH chỉ dùng điều trị TRÚNG PHONG DƯƠNG BẾ CHỨNG.
Ngoài trúng phong dương bế chứng ra, An Cung Ngưu Hoàng Hoàn còn được dùng trong các chứng nhiệt bế khác. Ví dụ: viêm não Nhật Bản, viêm màng não dịch tễ, bệnh lị nhiễm độc, áp huyết cao, hôn mê gan v.v.
Tác giả: Dương Tương Quốc
-> Thuốc An cung ngưu hoàng hoàn điều hòa huyết áp chữa đột quỵ
-> Liên hệ: 024.85886151 - 0986 122 292 - 0944362266 để được tư vấn miễn phí
-> Đọc thêm: 5 ngộ nhận về an cung ngưu hoàng hoàn
-> Liên hệ: 024.85886151 - 0986 122 292 - 0944362266 để được tư vấn miễn phí
-> Đọc thêm: 5 ngộ nhận về an cung ngưu hoàng hoàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét